Bánh gừng luôn có mặt trong các lễ hội quan trọng như ngày tết, ngày cúng ông bà tổ tiên Prôn-chung-bân (thường gọi Dolta) của người Khmer.
Cả người Chăm cũng xem bánh gừng là bánh truyền thống như người Khmer.
Bánh gừng nói theo tiếng Chăm là Hargìnònya, còn người Khmer ở Sóc Trăng thì gọi Num-khơ-nhây. Bánh được gọi tên vậy vì bánh có hình dạng củ gừng.
Muốn có những chiếc bánh thơm ngon béo giòn và tan dần trên mặt lưỡi người ta thường chọn loại nếp lớn, trắng đục, đem vo thật sạch, để ráo nước rồi xay hoặc quết nhuyễn. Khi làm, cứ một ký bột nếp cho khoảng 25 – 30 quả trứng gà và một muỗng canh bột nang mực. Trước hết, cho bột nang mực, cho nước chanh tươi vào rồi mới đập trứng gà và đánh thật đều tay cho trứng dậy lên (nổi rễ tre) thì cho bột nếp vào. Trộn hỗn hợp này thật nhuyễn, đến khi nào nắn bột thành những chiếc bánh có hình thù giống củ gừng. Sau đó chiên bánh bằng nồi chứ không chiên bằng chảo và phải thắng đường cát cho vào vịm; bánh chiên chín vàng nhúng vào vịm đường cát đã thắng để tạo một lớp áo mỏng bên ngoài rồi đem phơi nắng thì chiếc bánh mới trơn, láng bóng không bị cong.
Trong phong tục Chăm, bánh gừng có mặt trong các lễ hội quan trọng, nhất là tết Katê, lễ hội, lễ cưới. Bánh gừng lúc nào cũng được đặt lên trên hết cùng với bánh tét (paynung) và bánh gang tay (gakiya). Bánh tét (dương) tương trưng cho người chồng. Bánh gang tay (âm) tượng trưng cho người vợ. Bánh gừng (âm dương) hoà hợp, tượng trưng cho sự thuỷ chung của vợ chồng. Khi thưởng thức bánh gừng, người Chăm cho rằng mình đã nhớ đến hình ảnh thuỷ chung của nàng Nai Chrao Cho Phò (truyền thuyết của người Chăm giống như chuyện hòn vọng phu của người Kinh).
Thuỵ Minh, SGTT